Phụ Trương 1 

Hôn Nhân: Đồng Tế Mầu Nhiệm Yêu Thương 

 

 

Hôn Nhân: Khủng Hoảng Yêu Thương

 

"Hôn nhân không phải la một tiệc cưới yêu thương, ma la một cuộc đồng tế Mầu Nhiệm Yêu Thương, liên hoan cử hanh trong đền thanh gia đ́nh va trên ban thờ thân thể nên một của hai vợ chồng"

(Cao Tấn Tĩnh: "Mai Ấm Yêu Thương", Cao-Bùi, 1993)

 

Thật vậy, theo khuynh hướng va trao lưu duy nhân bản (humanism) ngay nay, hôn nhân "không phải la một tiệc cưới yêu thương" la ǵ, đối với đa số (nếu không muốn nói la hầu hết) cặp vợ chồng (tại Âu Mỹ), nhất la trong thanh phần giới trẻ, qua hiện tượng "tự do luyến ai".

Hôn nhân ngay nay "không phải la một tiệc cưới yêu thương" la ǵ, khi ma chế độ hay chính sach "cha mẹ đặt đâu con ngồi đó" hầu như đă hoan toan giải thể, như đang xẩy ra cho chế độ va chính sach cộng sản ở Âu Châu nói riêng va trên thế giới nói chung.

 

Hôn nhân ngay nay cũng "không phải la một tiệc cưới yêu thương" la ǵ, khi ma giới gia (thanh phần đă lập gia đ́nh) đang trên đa ly dị (thay vợ đổi chồng) với thống kê (tại Hoa Kỳ) hiện nay (1994) la 60%.

 

Hôn nhân ngay nay cang "không phải la một tiệc cưới yêu thương" la ǵ, khi ma giới trẻ (có ư định lập gia đ́nh) hầu như bao giờ cũng enjoy "tiền dâm hậu thú", bằng việc cử hanh "giây phút trọng đại" (big moment) vao dịp Dạm Ngơ (dating) riêng với nhau.

 

Ngay 2-2-1994, trong "Thư Gửi Cac Gia Đ́nh" nhân dịp Năm Gia Đ́nh Quốc Tế 1994, ĐTC Gioan-Phaolô II đă nhận định về hiện tượng va hậu quả của "tự do luyến ai" nay như sau:

 

"Ngược lại với văn minh yêu thương (the civilization of love) hẳn la hiện tượng được gọi la 'tự do luyến ai' (free love)' điều nay thật la nguy hiểm v́ nó thường đưa ra một lối sống theo những cảm xúc thực sự của ḿnh, nhưng thật ra la hủy hoại yêu thương. Biết bao gia đ́nh đă bị hủy hoại v́ tự do luyến ai!"

(The Pope Speaks:  vol 39,  no 4,  7-8/1994,  pg 224).

T́nh trạng "biết bao gia đ́nh bị hủy hoại v́ tự do luyến ai" như ĐTC nhận định như thế nghĩa la ǵ?

 

"Nếu không phải la một chứng cớ nói lên việc con người văn minh ngay nay đă lạm dụng 'tự do luyến ai' của ḿnh, hay đă không biết 'tự do luyến ai' la ǵ, hoặc đă 'tự do luyến ai' qua trớn v.v."

("Mai Ấm Yêu Thương" tr. 118)

 

Về nguyên tố lam cho "biết bao gia đ́nh bị hủy hoại v́ tự do luyến ai" nay  đă được chính ĐTC Gioan-Phaolô II trong cùng bức "Thư Gửi Cac Gia Đ́nh" đề cập đến như sau:

 

"Tất cả những ǵ phản lại với văn minh yêu thương la phản lại tất cả sự thật về con người va trở nên một mối đe dọa cho họ: nó không cho phép họ tự t́m thấy va cảm thấy an toan lam vợ chồng, lam cha mẹ, lam con cai. Cai được gọi la 'lam t́nh an toan' (safe sex) do 'văn minh kỹ thuật' (civilization of technology) phổ biến, thật ra, theo quan điểm về những đ̣i hỏi tổng quan của người ta, chẳng có an toan ǵ cả, ma lại thật la nguy hiểm. Nó tac hại cả con người lẫn gia đ́nh. Va điều nguy hiểm nay la ǵ? Đó la lam mất đi sự thật về riêng con người ḿnh va về gia đ́nh, cộng với việc liều mất đi tự do ma hậu qủa la mất chính t́nh yêu"

(Cùng tai liệu trích dẫn The Pope Speaks, tr 223).

 

 

Hôn Nhân: Phản Ảnh Yêu Thương

 

Như thế, nguyên nhân sâu xa trong hiện tượng "Hôn Nhân: Khủng Hoảng Yêu Thương" không phải bắt nguồn từ khuynh hướng hay trao lưu "tự do luyến ai", cho bằng v́ khủng hoảng Đức Tin: "Ai có thể chối cải la thời đại của chúng ta la một thời đại được đanh dấu bằng một 'cuộc khủng hoảng về sự thật' (crisis of truth)? Cuộc khủng hoảng về sự thật trước tiên có nghĩa la khủng hoảng về cac ư niệm (crisis of concepts). Những từ ngữ 'yêu thương', 'tự do', 'chân tặng' (sincere gift), va ngay cả từ ngữ về 'con người' (person) va 'cac quyền của con người' có thật sự lột tả ư nghĩa chính yếu của chúng hay không?" (Gioan-Phaolô II: "Thư Gửi Cac Gia Đ́nh").

 

Phải, thực tế ngay nay đă cho thấy, cơn băo lốc (tornado) "khủng hoảng về sự thật" nay trong thế giới tột đỉnh văn minh ngay nay đă quật tung lên va cuốn văng đi tất cả những cặp vợ chồng "xây nha ḿnh trên cat" (Mt 7:26). "Nha" của họ đây la ǵ? Nếu không phải la "gia đ́nh" của họ, la "lâu đai t́nh ai" của họ, la "hạnh phúc hôn nhân" của họ. Họ đă "xây nha ḿnh trên cat" la ǵ? Nếu không phải la xây trên những quan niệm va ư hướng tự nhiên trong việc lập gia đ́nh. Quan niệm tự nhiên trong việc lập gia đ́nh như "trai lớn lấy vợ, gai lớn lấy chồng". Ư hướng tự nhiên trong việc lập gia đ́nh như chỉ hoan toan v́ nhu cầu yêu thương thuần túy đ̣i hỏi để t́m kiếm hạnh phúc hôn nhân ma thôi. 

 

Nếu "trai lớn lấy vợ, gai lớn lấy chồng" "chỉ hoan toan v́ nhu cầu yêu thương thuần túy đ̣i hỏi để t́m kiếm hạnh phúc hôn nhân ma thôi", th́ đến chính lúc cần phải yêu thương nhau chân chính nhất, hoan toan nhất, ở tại hy sinh, nhịn nhục, thứ tha (mới thật la yêu) th́ họ lại bỏ nhau. Điều có vẻ mâu thuẫn đến chói tai nay thực sự đă xẩy ra trong thế giới ngay nay tại cac nước văn minh Âu Mỹ, ma "Hôn Nhân: Khủng Hoảng Yêu Thương" la một bằng cớ hùng hồn nhất.

 

Thật vậy, nếu "chỉ hoan toan v́ nhu cầu yêu thương thuần túy đ̣i hỏi để t́m kiếm hạnh phúc hôn nhân ma thôi" thúc đẩy lam cho "trai lớn lấy vợ, gai lớn lấy chồng", th́ thực sự họ đă "xây nha ḿnh trên cat", chắc chắn "túp lều lư tưởng" của họ, cho dù có trở nên "một túp lều tranh, hai trai tim vang" theo nỗ lực tự nhiên của họ đi nữa, cũng khó ḷng thoat khỏi cảnh bất hạnh, không nặng th́ nhẹ. Nếu nhẹ th́ bị "thiếu rượu" (Gn 2:3) ngay trong "tiệc cưới yêu thương" la lúc vui nhất va long trọng nhất của cuộc sống gia đ́nh ma họ mơ ước. Nếu nặng, sẽ bị "hoan toan sụp đổ" (Mt 7:27) khi gặp mưa giông băo tố trong cơn băo lốc "khủng hoảng về sự thật" hiện nay.

 

Thực trạng cũng la thảm trạng nay không có ǵ đang bỡ ngỡ va lạ lùng. Bởi v́, cả họ la người yêu lẫn người chồng hay vợ la người t́nh tuyệt vời trăm năm của họ không phải la chính "t́nh yêu". V́ không phải "la chính t́nh yêu", do đó, t́nh yêu ma họ có (chứ không phải họ la) để hướng về nhau, để t́m kiếm nhau, để thu hút nhau, để trao cho nhau, để nên một với nhau, tự bản chất của nó, vẫn có thể bị chi phối, vẫn có thể thay đổi, vẫn có thể xoay chiều, vẫn có thể phản bội.

 

Để rồi, một khi t́nh yêu tự nhiên đă cạn, (theo định luật tự nhiên nơi những ǵ hạn hữu), như cây đèn hết dầu, anh sang hạnh phúc hôn nhân cũng sẽ tự nhiên tắt lịm. Hạnh phúc bị khanh kiệt (bankruptcy) như cây đèn hết dầu nay không phải chỉ v́ nó đă cạn dầu yêu thương, ma c̣n có thể la v́ yêu thương đă trở thanh một thứ vốn liếng lam ăn (business), có lời th́ nhao vô đầu tư va cạnh tranh, bất lợi th́ rút lui va bảo thủ.   

 

Chính v́ hiện tượng "Hôn Nhân: Khủng Hoảng Yêu Thương" gây ra bởi "cuộc khủng hoảng về sự thật" đang lam tan nat bao cặp vợ chồng va bao gia đ́nh la nền tảng xă hội hiện nay ma "con người được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa" (STK 9:6), "có nam có nữ" (STK 1:27), cần phải hiểu được ư nghĩa đích thực của hôn nhân va nhờ đó đi theo đúng chiều hướng siêu nhiên của hôn nhân, để có thể "xây nha ḿnh trên đa", trên nền tảng kiên cố ma không ǵ có thể tan pha được nó.

 

"Ư nghĩa đích thực của hôn nhân va chiều hướng siêu nhiên của hôn nhân" đây được ham chứa nơi va biểu hiện qua ơn gọi hôn nhân, một ơn gọi "phản ảnh yêu thương". Bất cứ một cuộc hôn nhân nao không thực sự "phản ảnh yêu thương" sẽ không bao giờ có hạnh phúc chân thật, nếu không muốn nói la nó c̣n có thể trở nên bất hạnh. Cang "phản ảnh yêu thương", hôn nhân cang hạnh phúc. "Con người được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa" "có nam có nữ" chỉ t́m thấy ư nghĩa đích thực va phẩm vị cao qúi của hôn nhân trong ơn gọi "phản ảnh yêu thương" ma thôi:

 

"Trong anh sang của Tân Ước, có thể nhận chân khuôn mẫu nguyên vẹn của gia đ́nh được t́m thấy trong chính Thiên Chúa, trong mầu nhiệm sự sống Ba Ngôi của Ngai. Ngôi thần linh 'chúng ta' (the divine 'We') la mẫu thức đời đời của ngôi nhân loại 'chúng ta'  (the human 'we'), nhất la ngôi 'chúng ta' được h́nh thanh có nam có nữ theo h́nh ảnh va giống như thần linh"

(ĐTC Gioan-Phaolô II: "Thư Gửi Cac Gia Đ́nh")

 

"... bản tính va vai tṛ của gia đ́nh được chuyên biệt bởi yêu thương. Bởi thế gia đ́nh mang sứ mạng bảo tŕ, thể hiện va thông đạt yêu thương, một việc lam phản ảnh sống động của va cũng la một chia sẻ thực sự vao t́nh yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại cũng như t́nh yêu của Chúa Kitô đối với Giao Hội hiền thê của Người"

(ĐTC Gioan-Phaolô II: Tông huấn "Familiaris Consortio", đoạn 17)

 

 

Hôn Nhân: Mai Ấm Yêu Thương

 

Tuy nhiên, "con người được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa" "có nam có nữ" lam thế nao để có thể trung thực va sống động "phản ảnh yêu thương" qua cuộc sống vợ chồng của ḿnh? Nếu không phải, theo tinh thần của hôn ước, vợ chồng yêu thương nhau v́ Chúa, trong Chúa, cho Chúa va như Chúa.

 

"Vợ chồng yêu thương nhau v́ Chúa":

 

Chính Thiên Chúa la Đấng đă xe duyên kết nghĩa cho hai người, đó la một việc "thiên định" (Tobia 7:11), như ngay từ ban đầu Ngai đă nhúng tay vao việc hôn nhân của hai nguyên tổ khi dựng nên Eva từ con người va dẫn đến cho con người (x.STK 2:22). Trên thực tế, người ta thường quên hay không để ư đến ư nghĩa hôn nhân được "thiên định" nay. Do đó, họ đă dễ dang thay vợ đổi chồng như thay đổi thời trang, lam như người phối ngẫu của họ la do họ chọn lựa, hơn la do Thiên Chúa sắp xếp duyên số cho họ gặp nhau, hợp nhau, yêu nhau va lấy nhau. Cho dù trên thực tế con người có quyền tự do chọn lựa chung mọi sự va riêng hôn nhân đi nữa, quyền tự do chọn lựa của họ vẫn hoan toan không có tính cach tuyệt đối, hơn la chỉ có tính cach tương đối, tính cach nhận biết va chấp nhận những ǵ Thiên Chúa đă tiền định ma thôi. Chính v́ hôn nhân được "thiên định" như vậy, một khi họ phản bội nhau th́, trước hết va trên hết, họ phản bội Thiên Chúa, Đấng xe duyên kết nghĩa cho họ, họ "phân ly những ǵ Thiên Chúa đă liên hợp" (Mt 19:6). Trong cuộc sống hôn nhân, bao giờ hai vợ chồng c̣n ư thức được người phối ngẫu của ḿnh la "người của Chúa" ở với ḿnh, th́ hôn nhân, về mặt tiêu cực, khó ḷng ma đổ vỡ, trai lại, về mặt tích cực, vợ chồng sẽ có khả năng yêu thương nhau trong Chúa.

 

"Vợ chồng yêu thương nhau trong Chúa":

 

Cho dù lư do hai vợ chồng lấy nhau hoan toan v́ Chúa, "không phải v́ nhục dục" (Tobia 8:7), như chang Tôbia con trong đêm tân hôn, va nhận biết nhau la "ngưới ma Chúa cho ở với tôi" (STK 3:12), như con người (Adong) khi c̣n ở trong vườn địa đường đi nữa, họ vẫn có thể "nghe vợ ḿnh" (STK 3:17) hơn nghe Chúa. Bởi con người vợ chồng, qua hai nguyên tổ, đă yêu nhau lệch lạc như thế, họ đă lam mất đi sự hiệp thông "ngay ban đầu" (Mt 19:8) của "một bản thân" (STK 2:24), được bộc lộ qua cảm nhận "xấu hổ" của họ, đến nỗi họ phải che dấu đi bộ phận phai tính của ḿnh (x.STK 3:7). Thực tế cũng cho thấy, dù ca nhân mỗi người phối ngẫu không lam ǵ tiêu cực có thể trực tiếp tac hại đến hạnh phúc hôn nhân, song nếu không chịu luôn luôn cùng nhau t́m hiểu ư Chúa để hiệp nhất tâm trí va hanh động, hai vợ chồng cũng khó ḷng tranh khỏi những bất đồng, bất nhất, bất ổn, bất măn, bất an, thậm chí bất hạnh, v́ ai cũng nghĩ la ḿnh đúng, cũng nghĩ la ḿnh hay, cũng nghĩ la ḿnh hơn.  

 

"Vợ chồng yêu thương nhau cho Chúa":

 

Trong việc "liên hợp" con người được dựng nên theo h́nh ảnh Ngai "có nam có nữ" để "nên một bản thân", Thiên Chúa, qua việc chúc phúc cho họ, muốn họ "sinh sôi nẩy nở' tran lan mặt đất va lam chủ nó" (STK 2:28). Do đó, hôn nhân sẽ mất mục đích khi con người nam nữ la vợ chồng với nhau chỉ t́m vui nơi nhau va với nhau, sợ mang nặng đẻ đau, sợ con cai lam phiền ḿnh, sợ con cai lam giảm hạnh phúc hôn nhân, bằng những cach thức ngừa thai nhân tạo, thậm chí bằng đường lối pha thai, hay giao dục con cai cach bừa băi. Hôn nhân cũng sẽ lu mờ gia trị cao qúi khi cha mẹ chỉ biết đến tổ ấm của ḿnh ma không cần biết đến hay không để ư đến cộng đồng xă hội, đến nhu cầu công ích cần sự đóng góp của họ, hay có đóng góp họ cũng chỉ nhắm đến lợi ích trước hết cho ca nhân hay gia đ́nh ḿnh mới dấn thân cộng tac hay mới chịu hy sinh.

 

"Vợ chồng yêu thương nhau như Chúa":

 

"Thiên Chúa la T́nh yêu" (1Gn 4:8,16), va Ngai đă tỏ ḿnh ra hay tỏ t́nh với nhân loại bằng việc ban ḿnh cho họ, khi mặc lấy nhân tính của họ, nên giống họ hoan toan, để có thể ganh lấy những yếu hèn của họ, tiêu hủy đi những tội lỗi của họ, hầu cho họ được sống, một sự sống viên măn hơn (x.Gn 3:16, 1:14, 1Gn 4:9, DT 2:17, 4:15, Gn 10:10). "Hôn Nhân: Phản Ảnh Yêu Thương" cũng chỉ hoan toan va thực sự đạt đến tầm vóc trọn vẹn của ḿnh khi hai vợ chồng lột tả va hiện thực hóa t́nh yêu trọn hảo nay của Thiên Chúa. Bằng cach: "Cac người vợ phải phục tùng chồng ḿnh như phục tùng Chúa, v́ chồng la đầu của vợ ḿnh như Chúa Kitô la đầu của thân thể ḿnh la Giao Hội cũng la vị cứu tinh của Giao Hội. Như Giao Hội phục tùng Chúa Kitô, cac người vợ cũng phục tùng chồng ḿnh như vậy trong mọi sự. Cac người chồng hăy yêu thương vợ ḿnh như Chúa Kitô yêu thương Giao Hội. Người đă hiến ḿnh cho Giao Hội... Chồng phải yêu thương vợ ḿnh như chính bản thân ḿnh" (Eph 5:22-25, 28).

 

Vao chính ngay kỷ niệm thanh hôn hằng năm, hai vợ chồng họ bao giờ cũng xin nghỉ việc (nếu gặp ngay trong tuần), để cùng nhau đi tĩnh hôn (tĩnh tâm về hôn nhân). Sau đúng 10 năm  lấy nhau, họ đă cùng nhau soạn thảo một văn kiện hôn nhân như sau:

 

 Thỏa Ước Yêu Thương.

 

Vợ chồng tôi ư thức được rằng:

 

1.             Bản chất của hôn nhân la vợ chồng hiệp nhất "nên một bản thân", (bởi thế, không có vấn đề xưng hô "hai vợ chồng chúng tôi" ở đây, ma chỉ c̣n la "vợ chồng tôi").

2.             Thế nhưng, sự hiệp nhất nguyên thủy của hôn nhân đă bị nguyên tội hủy hoại.

3.             Bí Tích Hôn Phối có tac dụng hiệp nhất "nên một bản thân" người nam va người nữ được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa, để biểu hiện cho"Thiên Chúa la T́nh Yêu".

4.   Thế nhưng, trên thực tế, vợ chồng tôi vẫn nhận thấy ḿnh mới hiệp nhất nên một thân ḿnh có 4 chân, c̣n sống với nhau theo luật rừng, thường cắn cấu, gianh giựt nhau.

5.             Bởi vậy, đối với vợ chồng tôi, hôn nhân la tiến tŕnh hiệp nhất "nên một bản thân".

6.             Thế nhưng, trong đời sống hôn nhân, vợ chồng không thể hiệp nhất "nên một bản thân" nếu không biết cảm thông va chia sẻ.

7.             "Cảm thông" bằng cach lắng nghe nhau: 1 x 1 = 1 (hôn nhân la "nên một bản thân").

8.   "Chia sẻ" bằng cach thích ứng với nhau: 1 / 1 = 1 (hôn nhân la "nên một bản thân").

9.             Sở dĩ vợ chồng tôi không/chưa lắng nghe được nhau la v́ nơi mỗi người c̣n ồn ao với đủ thứ đ̣i hỏi theo tư lợi: 1 + 1 = 2

                (hôn nhân không nên 1: vô nghiă).

10.          Sở dĩ vợ chồng tôi không/chưa biết chia sẻ với nhau la v́ nơi mỗi người c̣n nghẹt cứng tự ai của thần tôi vĩ đại: 1 - 1 = 0

                (hôn nhân không nên 1: tan vỡ). 

 

Do đó, để hiệp nhất "nên một bản thân", vợ chồng tôi đồng tâm nhất quyết từ nay:

 

1.             Tin tưởng vào con người của nhau,        

2.             Để ư đến những sở thích của nhau,

3.             Tôn trọng những tâm tư của nhau,         

4.             Chiều theo đ̣i hỏi vô tội của nhau,

5.             Đap ứng những nhu cầu của nhau,         

6.             Chia sẻ những khó khăn của nhau,

7.             Nâng đỡ những yếu kém của nhau,         

8.             Bênh chữa những lỡ lầm của nhau,

9.             Bổ khuyết những thiếu sót của nhau,     

10.          Tha thứ những bội bạc của nhau.

 

Xin Trai Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội

Trinh Nữ Sinh Con Maria,

Mô Phạm cho cả đời sống tu tŕ (Trinh Nữ)

và hôn nhân (sinh con),

la Mai Ấm Yêu Thương của gia đ́nh vợ chồng con!

(TGP/LA ngay 6-8-1993)